I. CÁC QUY LUẬT CỦA WYCKOFF
- Quy luật cung cầu
- Cung > Cầu => Giá giảm
- Cung < Cầu => Giá tăng
- Cung = Cầu => Giá ít biến động
- Quy luật Nguyên nhân – Hệ quả
- Theo như Wyckoff, không có sự việc gì xảy ra ngẫu nhiên, mà đều là kết quả từ một nguyên nhân nào đó.
- Ví dụ giai đoạn đẩy giá là kết quả của quá trình tích lũy trước đó, giai đoạn thoái trào chính là hệ quả của quá trình phân phối trước đó.
- Quy luật Nỗ lực – Kết quả
- Nỗ lực và Kết quả có thể nhìn theo biên độ giá và khối lượng giao dịch.
- Giả sử cổ phiếu trong phiên bị đẩy xuống với biên độ lớn và Vol cao thì chúng ta có thể hiểu rằng đang có đội nhóm nào đó nỗ lực đẩy giá cổ phiếu đi xuống, vì nếu họ không nỗ lực thì khối lượng không thể nào cao như vậy được. Trong VSA có thể hiểu đây là phiên Shake out hay Upthrust.
- Quy luật về Người vận hành đằng sau (Composite man)
- Theo Wyckoff, bản chất thị trường sẽ có người hay nhóm người vận hành đằng sau, và thị trường luôn vận động theo hướng có lợi cho nhóm người này.
- Đối chiếu với TTCK thì hoàn toàn đúng, bản chất của mỗi cổ phiếu luôn có một đội nhóm nhỏ, và các đội lớn hơn đằng sau. Nhiệm vụ của các đội này là điều khiển giá làm sao theo hướng có lợi cho họ. Những người này gom hàng ở mức giá thấp và đẩy giá lên bán ra ở mức cao hơn. Vì nếu không có đội nhóm nào thì cổ phiếu không thể tạo xu hướng được, vì chỉ nhỏ lẻ thì không thể đồng thuận để tạo nên xu hướng.
II. MẪU HÌNH WYCKOFF Ở ĐÁY VÀ TÁI TÍCH LŨY
Mô hình Wyckoff cơ bản sẽ có 4 kiểu:
- Mô hình ở đáy sau một đợt giảm mạnh (1)
- Mô hình tái tích lũy trong chu kỳ đi lên (2)
- Mô hình ở đỉnh thể hiện sự phân phối sau một đợt tăng mạnh (3)
- Mô hình tái phân phối trong chu kỳ đi xuống (4)
Trong đó mô hình (1) (2) cơ bản sẽ tương tự nhau, mô hình (3) (4) cũng sẽ tương tự nhau. Trong giới hạn nội dung của phần này mình sẽ nói về mô hình (1) (2), còn mô hình (3) (4) các bạn có thể hiểu ngược lại, hoặc đọc Wyckoff – P2 của mình.

Trong mô hình Wyckoff sẽ có 5 phases cho sự vận động của cổ phiếu, mỗi phase sẽ có những sự kiện riêng biệt, ở đây chúng ta sẽ cùng đi qua những sự kiện này là gì. Ý nghĩa của từng pha mình đề cập ở phần phía dưới nữa.
- Điểm PS (Preliminary Support): Điểm hỗ trợ đầu tiên
- Lực mua đã bắt đầu xuất hiện trong downtrend.
- Khối lượng giao dịch lớn, biên độ lớn (thường là nến rút chân).
- Khi PS xuất hiện nó không báo hiệu cho khả năng tạo đáy, mà chỉ có ý nghĩa là lực bán đã có phần yếu bớt, và quá trình tạo đáy đang đến gần.
- Điểm SC (Selling Climax): Điểm quá bán
- Tại điểm này xảy ra sự bán hoảng loạn.
- Nhỏ lẻ và đội nhóm bé hơn bị call margin, và bị các đội/ tổ chức lớn hơn mua lại.
- Vol lớn, biên độ cao, giá thấp nhất so với các phiên trước đó.
- Điểm AR (Automatic Rally): Đỉnh đầu tiên của đợt phục hồi
- Sau khi SC xuất hiện, lực cung liên tục bị hấp thụ bởi lực cầu.
- Tuy nhiên đi lên 1 đoạn lực cầu này bắt đầu yếu đi, xuất hiện các cây nến lưỡng lự cùng với vol thấp.
- AR sẽ trờ thành vùng kháng cự của giai đoạn phía sau.
- Điểm ST (Second Test)
- Sau khi tạo đỉnh đầu tiên của đợt phục hồi, cổ phiếu sẽ test lại điểm Selling Climax, và tạo ra điểm ST.
- Quá trình test lại thường có vol thấp và biên độ dao động thấp hơn SC.
- Nếu ST lượng cung bán ra thấp và nằm cao hơn SC thì khả năng đáy đã được tạo ra.
- Đây là vùng mà BB muốn kiểm tra cung và cầu đã cân bằng hay chưa.
- Điểm Spring (Giũ cuối)
- Thường xảy ra ở cuối giai đoạn tích lũy (phase C).
- BBs kiểm tra lượng cung trước khi bước vào phase đẩy giá.
- Nếu Vol lớn có khả năng rơi vào một chu kỳ giảm giá mới.
- Nếu Vol trung bình, có thể xảy ra các phiên ST tiếp theo.
- Mục đích của Spring là kéo giá xuống qua các hỗ trợ ST, SC trước đó để kiểm tra lượng cung còn nhiều hay không, và loại bỏ bớt NĐT nhỏ lẻ.
- Điểm LPS (Last point of Support)
- Thông thường khi vào phase D, Vol sẽ tăng dần.
- LPS xuất hiện như là những lần điều chỉnh tự nhiên về vùng giá hỗ trợ mà trước đó là kháng cự, sau đó mới bật tăng tới mức giá cao hơn, phá vỡ kháng cự kế tiếp.
- Trong phase D có thể nhiều hơn 1 điểm LPS.
- Điểm SOS (Sign of Strength)
- SOS là một sự bứt phá khỏi kháng cự trên cùng của mô hình, sau khi LPS được nhìn thấy rõ ràng trên đồ thị.
- SOS thường xảy ra sau một Spring, xác nhận lại mẫu hình.
III. CÁC PHASE TRONG MÔ HÌNH WYCKOFF

Phase A:
- Phase A đánh dấu sự kết thúc của một downtrend đang diễn ra. Tại thời điểm này, lực cung vẫn chiếm ưu thế. Nhưng lực cung này sẽ dần suy kiệt khi ta thấy vận động của giá đã tạo ra điểm PS và SC.
- Khi nhìn vào PS và SC các bạn sẽ thấy được là tại điểm này spread giá sẽ lớn đi cùng với khối lượng cao. Điều này thể hiện rằng một lượng lớn cổ phiếu từ nhỏ lẻ đã được trao tay sang các tổ chức, đội nhóm lớn.
- Một khi bị quá bán SC, nhỏ lẻ bị margin call, phải cắt lỗ trong hoảng loạn, tự khắc một đợt phục hồi xuất hiện, các tổ chức hay đội nhóm mua lên và những vị thế short mua lại để đóng lệnh. Vậy nên giá tăng lại tới điểm AR.
- Điểm ST sẽ kiểm định lại là liệu lực bán còn mạnh hay không. Nó được gọi là Second Test (điểm test thứ 2) sau điểm SC. Một điểm ST thành công đòi hỏi spread giá thu hẹp lại, vùng khối lượng đi từ AR tới ST thấp hơn bên phía SC, và ST nằm ngang hoặc cao hơn SC. Nếu ST bị giảm qua SC, có thể hình thành đợt giảm giá tiếp theo và ta sẽ phải tính lại điểm PS và SC.
- Giá thấp nhất của SC và giá cao nhất của AR tạo ra 1 vùng vận động của giá (TR – Trading range), ở đây sẽ là vùng giá để cổ phiếu tích lũy lại.
Phase B:
- Phase B sẽ là pha tích lũy chính của cổ phiếu. Pha này tương ứng với quy luật “nguyên nhân – hệ quả” của Wyckoff. Pha này chính là pha xây nên “nguyên nhân” để dẫn đến “hệ quả” sau này. Ở pha này thì các tổ chức, đội nhóm sẽ tích lũy cổ phiếu với giá thấp để chuẩn bị cho một đợt tăng giá sau này. Quá trình tích lũy này có thể mất khá lâu (đôi khi tính bằng năm), quá trình tích lũy càng lâu thì đợt tăng giá sẽ càng kéo dài.
- Các tổ chức cần đảm bảo rằng họ sẽ tích lũy được với mức giá thấp vì thế họ sẽ từ từ thu gom mỗi ngày một ít, đến khi nào hấp thụ tối đa hàng trôi nổi bên ngoài, vì thế bạn mới thấy Vol vùng này thường thấp dần. Vì nếu mua quá nhiều, tạo vol cao sẽ thu hút nhỏ lẻ bên ngoài và khiến quá trình thu gom khó khăn hơn. Giá lên một đoạn tới biên trên sẽ bị đạp xuống để tổ chức tiếp tục gom giá thấp, làm cho nhỏ lẻ chán nán bán hàng trao tay lại cho tổ chức.
- Đầu pha B, giá có thể dao động trong một biên khá lớn để hấp thụ lực cung (khối lượng có thể cao), giá tăng break qua điểm AR sau đó quay đầu giảm phá qua điểm SC tạo ra điểm STB (Second Test in phase B). AR và điểm break qua AR tạo ra vùng kháng cự, SC và STB tạo ra vùng hỗ trợ trong phase B. Sau đó giá sẽ giao động hẹp lại, khối lượng có xu hướng giảm dần. Khi có vẻ nguồn cung đã gần cạn kiệt, cổ phiếu sẽ bắt đầu bước vào phase C.
Phase C:
- Ở pha C, cổ phiếu tích lũy thêm và trải qua một đợt kiểm tra quyết định đối với nguồn cung còn lại, kiểm tra xem là cổ phiếu đã sẵn sàng để bước vào đợt tăng giá hay chưa. Các tổ chức có thể sẽ đạp giá xuống thấp nhất có thể, break qua vùng hỗ trợ và STB trước đó, sau đó kéo ngược về lại tạo ra điểm Spring (điểm giũ cuối). Đây là một ‘bear trap’ (bẫy giảm giá) vì cổ phiếu bị kéo xuống qua cả điểm thấp nhất trước đó tạo ra một lực bán hoảng loạn của nhỏ lẻ mua ở những phase trước.
- Vol thấp là lý tưởng nhất cho điểm Spring, nếu vol trung bình có thể sẽ cần những điểm test lại phía sau (ST), còn nếu vol quá cao thì giá có thể bị rơi vào chu kỳ giảm tiếp theo.
- Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có điểm Spring theo mô hình Wyckoff, nhưng nếu xuất hiện điểm Spring với Vol nhỏ thì khả năng cao là cổ phiếu đã sẵn sàng để chạy. Và đây là một trong những thời điểm tốt nhất để bạn có thể bắt đầu mua vào một tỉ lệ nhất định.
- Nếu như không xảy ra điểm Spring, thì phase C này sẽ hơi khó nhận diện một chút. Vì điểm test sẽ ở phía trên, và các bạn có thể xác định bằng những phiên shake-out với biên độ cao.
Phase D:
- Sau khi test thành công ở phase C, cổ phiếu sẵn sàng bước vào phase D. Đây là pha chúng ta có thể chứng kiến được cổ phiếu dần dần mạnh lên. Các đáy sau tạo ra cao hơn đáy trước, hình thành nên các LPS, spread lớn, vol tăng dần. Trong pha D, giá ít nhất phải di chuyển tới vùng kháng cự phía trên của mô hình.
- Một dấu hiệu cho cổ phiếu trở nên khỏe hơn là hình thành điểm SOS (Sign of Strength). Điểm này chính là điểm cho sự bứt phá khỏi vùng kháng cự trên cùng của mô hình, đi cùng với nó là vol tăng lên.
- Các điểm LPS sẽ là điểm đặt lệnh mua vào đón đầu khá tốt trước khi cổ phiếu chạy. Các điểm LPS thường sẽ có spread nhỏ đi kèm với Vol nhỏ.
Phase E:
- Ở phase E, giá đã rời khỏi vùng tích lũy trước đó và đã break qua vùng kháng cự, bây giờ phe mua hoàn toàn chiếm ưu thế và rất nhiều người nhận ra điều đó. Nếu giá có giảm thì cũng chỉ là rũ bỏ trong thời gian ngắn rồi sau đó đi lên tiếp.
- Trong quá trình đi lên, cổ phiếu có thể tái tích lũy tạo nền trước khi tiếp tục đạt được những mức giá cao hơn.



Mình xin kết thúc Phần 1 tại đây. Để nhận thông báo bài viết cho phần tiếp theo hoặc các bài viết khác, mọi người có thể follow mình tại đây: