Ở bài viết Phần 1, mình đã giới thiệu về các quy luật của Wyckoff cũng như mô hình vận động giá ở đáy sau một đợt giảm mạnh và mô hình tái tích lũy trong chu kỳ đi lên kèm theo các ví dụ cụ thể. Bản chất của 2 mô hình đó là tương tự nhau. Các bạn có thể đọc lại phần 1 tại đây: Phương pháp Wyckoff – P1.
Dành cho ai muốn đọc về tiểu sử của Wyckoff cũng như cách ông tiếp cận thị trường như thế nào thì có thể đọc bài viết này: Richard D.Wyckoff – Một huyền thoại phân tích kỹ thuật.
Bài viết Wyckoff – P2 này mình sẽ nói về mô hình Wyckoff phân phối sau một đợt tăng mạnh, và tái phân phối trong chu kỳ đi xuống. Mời các bạn cùng đọc.
I. MÔ HÌNH WYCKOFF Ở ĐỈNH VÀ TÁI PHÂN PHỐI

Chúng ta cùng điểm qua các sự kiện diễn ra trong mô hình:
Điểm PSY (Prelimiary Supply): Điểm bán mạnh đầu tiên / Nguồn cung sơ bộ
- Đây là điểm chúng ta thấy có một nguồn cung mạnh mẽ xuất hiện sau một giai đoạn tăng giá mạnh.
- Khối lượng tăng mạnh kèm với biên độ giá giảm lớn, điều này có thể báo hiệu cho một sự đảo chiều đang sắp diễn ra.
Điểm BC (Buying Climax): Điểm quá mua / Đỉnh đầu tiên của quá trình phân phối
- Tại đây xảy ra lực mua lên do FOMO, giống như một giai đoạn ngắn chạy nước rút của cổ phiếu.
- Giá tăng với biên độ lớn nhưng khối lượng giảm so với các phiên tăng phía trước đó.
- Đa phần là do nhỏ lẻ mua lên
- Thường có tin tốt về báo cáo tài chính hoặc do thông tin trên media.
- Đây là giai đoạn các tổ chức cần một lực cầu từ bên ngoài để trao tay lại cổ phiếu của họ mà không làm giảm giá cổ phiếu.
Điểm AR (Automatic Reaction): Đáy đầu tiên của giai đoạn phân phối
- Sau điểm quá mua, lực mua lên không thể áp đảo được lực bán nữa, nguồn cung lớn tiếp tục được đưa vào thị trường, xuất hiện bán tháo tạo ra điểm AR.
- Biên độ giảm lớn đi kèm với vol cao.
- Điểm AR này sẽ xác định biên dưới cho giai đoạn phân phối.
Điểm ST (Second Test): Điểm test lại BC
- Giá sẽ được kéo lên lại vùng BC để kiểm tra trạng thái cân bằng cung/ cầu ở mức giá này.
- Để đỉnh đầu tiên BC trước đó được xác nhận thì lực cầu đoạn này phải nhỏ hơn lực cung. Vì thế ta phải thấy khối lượng mua lên nhỏ hơn bên phía BC, biên độ giá tăng cũng phải nhỏ hơn bên phía BC.
Điểm UT (Upthrust)
- Cũng là một kiểu test lại ST, nhưng giá được đẩy qua điểm BC hoặc các điểm ST khác trước khi nhanh chóng đảo chiều về lại mức dưới của kháng cự BC.
- Là những phiên Upthrust rất rõ ràng đi kèm với khối lượng cao. Các bạn chỉ cần hiểu Upthrust là một kiểu nến (bar) đóng cửa ở mức thấp nhất hoặc gần thấp nhất đi kèm với khối lượng cao, bóng nến trên dài. Phiên Upthrust là một phiên rất quan trọng giúp chúng ta xác nhận rõ hơn là cổ phiếu đang trong giai đoạn phân phối. Các bạn có thể đọc kỹ hơn về Upthrust tại bài viết này: 7 thanh bar trong VSA.
- Sau UT, giá có xu hướng test lại biên hỗ trợ dưới của vùng phân phối.
Điểm UTAD (Upthrust after Distribution)
- Nếu như mô hình ở Phần 1 có Spring, thì ở mô hình phân phối có UTAD.
- UTAD chính là điểm cao nhất của mô hình, được đẩy lên để thử nghiệm lực cầu lần cuối cùng. Giá phá vỡ qua vùng kháng cự trên với mục đích là test xem lực cầu bên ngoài khi thấy break khỏi kháng cự có muốn tham gia vào hay không.
- UTAD cần khối lượng thấp để thể hiện phe mua không muốn mua vào, sau đó giá giảm về lại dưới vùng kháng cự.
- Tuy nhiên UTAD không phải là điểm bắt buộc phải có trong mẫu hình. Nếu nó có thì càng khẳng định rằng mô hình đang đi đúng hướng.
Điểm LPSY (Last point of Supply)
- LPSY xuất hiện như những lần hồi phục tự nhiên về vùng giá kháng cự mà trước đó là hỗ trợ, sau đó giá lại giảm tạo đáy sau thấp hơn đáy trước và phá vỡ hỗ trợ kế tiếp.
- Trong phase D có thể có nhiều điểm LPSY.
Điểm SOW (Sign of Weakness): Dấu hiệu suy yếu
- SOW xảy ra khi giá rơi xuống phá vỡ vùng hỗ trợ dưới cùng.
- Biên độ rơi lớn đi kèm với Vol cao.
- Việc giá rơi qua vùng hỗ trợ được tạo bởi AR và SOW phase B trước đó đã cho thấy rõ hơn về sự thay đổi đặc tính trong hành động giá của cổ phiếu: “Phe bán đang chiếm ưu thế”.
TR (Trading range)
- Là vùng phân phối / giao dịch chính được tạo bởi biên trên BC và biên dưới AR.
II. CÁC PHASE TRONG MÔ HÌNH

Phase A:
- Phase A đánh dấu điểm dừng của một giai đoạn tăng mạnh trước đó. Tại những điểm PSY và BC cho thấy phe bán đang chiếm ưu thế, được thể hiện qua các cây nến giảm với biên độ mạnh và vol cao.
- Chúng ta thấy khi đi từ PSY đến BC thì những phiên mua vào khối lượng sẽ nhỏ hơn so với những phiên bán ra.
- Khi đến điểm quá mua BC, lực mua suy kiệt rõ rệt, các tổ chức/ đội nhóm đưa ra một lượng cung lớn khiến lệnh mua không theo kịp, giá bắt đầu bị đẩy xuống mạnh, bán tháo diễn ra, giá bị giảm một đoạn xuống điểm AR.
- Vì các tổ chức/ đội nhóm cầm rất nhiều hàng nên quá trình phân phối sẽ vừa bán vừa mua lại để tránh giá tụt quá nhanh. Ở điểm AR, tổ chức sẽ mồi lên cho lực cầu bên ngoài cùng tham gia vào, giá được hồi về điểm ST.
- Điểm ST sẽ test lại lực cầu tại BC, kiểm tra xem lực mua có còn mạnh hay không. Đi từ AR tới ST các phiên mua vào sẽ có khối lượng và biên độ tăng thấp dần, và ST sẽ nằm dưới BC.
- Lưu ý rằng không phải lúc nào cũng có giai đoạn nước rút mua vào tạo ra điểm BC, mà ta có thể thay bằng sự suy kiệt rõ rệt của phe mua khi nhìn vào biên độ giá và khối lương. Nếu ai đã biết qua về Price Action (PA) thì sẽ biết rõ hơn. Các bạn có thể đọc chuỗi bài viết về PA tại đây: Price Action – Từ A tới Z.
- Sự bán tháo xảy ra là do lượng cung lớn áp đảo hoàn toàn lượng cầu, các lệnh bán ra không thể khớp với lệnh mua vào ở mức giá hiện tại làm cho các lệnh bán phải tìm tới lệnh mua ở mức giá thấp hơn. Thêm nữa là do phe short (bán khống) gây thêm áp lực khiến giá giảm nhanh hơn. Tuy là ở TTCK VN chưa thể short cổ phiếu nhưng mình cũng sẽ thêm vào để mọi người có thể phân tích ở các thị trường khác như forex, crypto.
Phase B:
- Tương tự như mô hình Phần 1, phase B chính là pha xây nên ‘nguyên nhân’ để dẫn tới ‘hệ quả’. Trong giai đoạn này các BBs sẽ thanh lý hàng tồn kho của họ và bắt đầu các vị thế Short đón đầu cho đợt giảm giá mạnh sau này.
- Những điểm ở phase B trong giai đoạn phân phối tương tự như những điểm trong giai đoạn tích lũy, chỉ có điều trong giai đoạn phân phối này các tổ chức/ đội nhóm là người bán ròng với mục đích là triệt tiêu phe mua, còn trong giai đoạn tích lũy các tổ chức sẽ gom vào triệt tiêu phe bán.
- Quá trình này để lại dấu vết cho thấy cán cân cung/ cầu đang bị lệch sang bên cung. Thông thường các bạn có thể thấy SOWB tạo ra với biên độ giảm mạnh và khối lượng lớn.
Phase C:
- Trong quá trình phân phối, chúng ta có thể nhận diện pha C thông qua điểm UTAD hoặc điểm UT. Giá được đẩy lên tới hoặc qua vùng kháng cự trên sau đó nhanh chóng đảo chiều kết thúc phía dưới vùng kháng cự.
- Đây là bull trap cũng như là đợt kiểm định lực cầu cuối cùng, mục đích của nó là bẫy những nhà đầu tư ‘sảy chân’ mua vào khi nhìn thấy break.
- UTAD tạo ra để đánh lừa lực cầu bên ngoài về xu hướng chủ đạo của cổ phiếu, các tổ chức lại được bán giá cao hơn cho những người này trước khi bắt đầu giảm giá.
- Ngoài ra UTAD còn là điểm mà loại bỏ các vị thế short trước đó khi điểm này break lên đến điểm cắt lỗ, và tạo điều kiện cho các tổ chức mở short ở vị thế tốt hơn.
- Sau UTAD, các bạn có thể mở vị thế short ban đầu cho mình, tỷ lệ RR thường khá thuận lợi. Tuy nhiên cũng nên lưu ý rằng SM sẽ không cho điều đó dễ dàng xảy ra, họ sẽ tạo ra các UT lần này đến lần khác. Vì vậy để an toàn hơn các bạn có thể đợi LPSY ở phase D.
- Thông thường nếu lực cầu quá yếu không tạo ra được UTAD hay giá không đạt được tới BC hoặc ST ở phase A, thì giá có thể kiểm định cầu thông qua các UT có mức đỉnh thấp hơn.
Phase D:
- Sau khi pha C đã đưa ra những kiểm định cuối cùng về lực cầu, giá bước vào pha D. Trong pha này ta sẽ chứng kiến giá đi xuống dần về các hỗ trợ trong TR trước đó và phá vỡ các vùng hỗ trợ này (đặc biệt là khi giá đi xuống hơn một nửa của vùng TR), các đỉnh sau được tạo ra thấp hơn các đỉnh trước.
- Thường có nhiều đợt hồi yếu trong pha D, các LPSY này là điểm mở vị thế short lý tưởng và bạn không nên mua vào với bất kỳ lý do gì.
Phase E:
- Trong pha này, giá đã phá vỡ vùng kháng cự cứng dưới cùng, và phe bán hoàn toàn chiếm ưu thế. Một khi giá phá vỡ hỗ trợ bằng một SOW mạnh, giá có thể được test lại tại gần vùng đó bằng một đợt hồi nhẹ thất bại. Đây là một cơ hội tốt khác mà bạn có thể mở vị thế short.
- Lưu ý rằng trong quá trình đi xuống đến một mức giá nhất định, giá hồi lên lại một đoạn kha khá và sau đó có thể lập lại mô hình tái phân phối một lần nữa.
III. CÁC VÍ DỤ



Mình xin kết thúc bài Wyckoff – P2 tại đây. Cho ai muốn biết cách kết hợp Wyckoff với SMC có thể đọc bài viết này của mình: SMC – P4: Wyckoff kết hợp cùng SMC.
Để nhận thông báo cho những bài viết mới nhất, mọi người có thể follow mình ở phần liên hệ bên dưới. Chúc mọi người sức khỏe!